Thứ Năm, 30 tháng 8, 2018

Nhóm "Big4" ngân hàng nên tăng vốn như thế nào?

Mới đây Ngân hàng Nhà Nước lại tiếp tục kiến nghị Chính phủ xem xét trình Quốc hội để sửa đổi bổ sung theo hướng được chấp nhận các ngân hàng Thương Mại (NHTM) có vốn Nhà nước được đưa vào danh mục góp vốn đầu tư công trung hạn. Cùng đó, những bộ ngành liên quan được kiến nghị bố trí nguồn để NHTM rất có thể phát triển vốn sau khi được phê duyệt.


Mục đích tăng vốn điều lệ cho ngân hàng

Một trong những mục đích chủ yếu của việc tăng trưởng vốn của các NHTM có vốn của nhà nước được cho là để phục vụ tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu (CAR) vốn đã tụt giảm xuống gần chạm ngưỡng hiện hành là 9%. Nếu theo tiêu chuẩn Basel II thì càng cần phải nâng vốn lên thậm chí gấp đôi hiện nay mới đạt tiêu chuẩn. Kết quả ấn tượng vốn cũng là để mở rộng phạm vi kết quả khả quan tín dụng thanh toán bởi hạn mức tín dụng của cả ngân hàng nói chung và của ngân hàng cho từng khách hàng nói riêng chịu ràng buộc trước hết vào mức độ vốn tự có của ngân hàng.
Tuy nhiên, những nguyên nhân trên mới chỉ là xuất phát từ góc độ của từng NHTM. Ở góc độ cai quản nhà nước, Ngân hàng Nhà Nước nên/cần buộc những NHTM có vốn nhà nước phải đẩy mạnh vốn tự có của họ, nhằm mục đích đảm bảo an toàn khối hệ thống.

cụ thể chi tiết, với tư cách là những ngân hàng có tầm quan trọng mang tính chiến lược, các NHTM có vốn nhà nước không chỉ là một công cụ chính sách thông qua đó Ngân hàng Nhà Nước điều tiết hoạt động của khối hệ thống ngân hàng Thương Mại, mà còn đóng vai trò là bệ đỡ giảm sốc cho khối hệ thống mỗi khi phải đối mặt với các cú sốc bên trong và bên ngoài. Chuyện Ngân hàng NN "huy động" một số NHTM có vốn nhà nước tham gia tái cơ cấu những ngân hàng yếu kém là một minh chứng rõ cho vai trò quan trọng này của những ngân hàng nói trên.

Hơn hết, do "quá lớn nên không thể để đổ vỡ", các NHTM có vốn nhà nước – các ngân hàng đứng đầu khối hệ thống về quy mô tài sản trong khối hệ thống – cần phải luôn ở trong trạng thái khỏe mạnh để ít ra cũng không trở thành gánh nặng hỗ trợ mà đôi khi là quá sức với NH Nhà Nước. Các bài học sống động từ những cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới được châm ngòi bởi sự đổ vỡ của một ngân hàng lớn nào đó cho thấy tầm quan trọng của việc buộc những ngân hàng lớn phải luôn duy trì trạng thái vốn lành mạnh để chống đỡ được với những bất ổn và rủi ro tín dụng mà không kéo theo sự đổ vỡ của cả hệ thống.

Trở ngại tăng vốn

phương pháp phát triển vốn đầu tiên cho NHTM có vốn nhà nước là thay đổi cơ cấu chiếm dụng cổ đông. Hiện tại, nhà nước là người đóng cổ phần chi phối của ba NHTM có vốn nhà nước đã cổ phần hóa là Vietcombank, Vietinbank và BIDV. Theo cách này, nhà nước hoàn toàn có thể giảm tỷ lệ chiếm hữu hay thoái vốn nắm giữ trong 2 ngân hàng là BIDV và Vietcombank (theo quy định hiện hành) cho các cổ đông hiện hữu hay NĐT mới thông qua các đợt phát hành cổ phiếu phát triển vốn cho NĐT (gồm nhà đầu tư nước ngoài) và/hoặc cho công chúng. Tuy nhiên, cách này đang vấp phải trở ngại là những quy định của NH Nhà Nước, gồm tiêu chuẩn chọn lựa cổ đông, giá bán, thời hạn nắm giữ tối thiểu và trần sở hữu nước ngoài v.v…

NHTM có vốn nhà nước với nhà nước là nhà đầu tư chi phối còn có một cách kết quả ấn tượng vốn dĩ nhiên là nhà nước bổ sung vốn từ ngân sách, song song với việc bỏ vốn tương ứng của những cổ đông còn lại. Nhưng cách này vấp phải trở ngại là Quốc hội không chấp thuận cho Chính phủ dùng chi phí nhà nước để kết quả ấn tượng vốn điều lệ cho những NHTM có vốn nhà nước, và không đưa nhu cầu bổ sung vốn cho các NHTM có vốn nhà nước vào danh mục đầu tư công trung hạn.

Một cách tăng trưởng vốn phổ biến khác là giữ lại lợi nhuận (không trả cổ tức) để bổ sung vốn. Nhưng cách này cũng không được chấp nhận khi Chính phủ kiên quyết yêu cầu những NHTM có vốn nhà nước phải trả cổ tức bằng tiền mặt (có thể với nguyên do căng thẳng chi phí nhà nước).

Cách nào hợp lý hơn?

Rõ ràng là việc tăng vốn cho các NHTM có vốn nhà nước đã không có nhiều lựa chọn mà lựa chọn nào cũng có những mâu thuẫn nội tại. Nên chiến thuật hoàn toàn có thể thực hiện ở đây chỉ là chọn ra một cách thức kết quả khả quan vốn nào đó tỏ ra có tổn hại nhỏ nhất so với những phương pháp còn lại.

Hiện tại, nếu thực hiện theo kiến nghị của NH Nhà Nước – dùng ngân sách nhà nước – thì chiến thuật này sẽ gây ra các tổn hại như:

(i) Làm căng thẳng thêm thâm hụt ngân sách và nợ công/nợ nước ngoài. Dù rất có thể lập luận rằng bổ sung vốn từ chi phí sẽ giúp các ngân hàng khỏe mạnh hơn, hấp dẫn hơn nên, do đó, dễ CP hóa/thoái vốn hơn trong tương lai (và được giá hơn) v.v… nhưng tương lai này là quá bất định để có tính thuyết phục so với cái giá phải trả nhìn thấy ngay trước mắt là tổn hại lớn cho ngân sách đang rất khó khăn và nợ công đã sắp chạm trần.

(ii) Đi ngược lại và làm chậm các bước CP hóa và thoái vốn nhà nước. Mặc dù việc Chính phủ trình Quốc hội xem xét được chấp nhận NHTM có vốn nhà nước được bổ sung vốn từ chi phí là để cho phù hợp với quy định liên quan trong Luật góp vốn đầu tư công, nhưng các hành động "tháo gỡ" như vậy là tiền đề không tốt cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) khác thoái thác cổ phần hóa và thoái vốn nói riêng và tính nghiêm minh của pháp luật nói chung.

 Trên hết, vẫn chưa thấy có giải trình thỏa đáng từ phía cơ quan quản lý tại sao lại phải dùng chi phí nhà nước để kết quả ấn tượng vốn cho các ngân hàng này mà không dùng các giải pháp khác (như bàn thêm ở phần dưới đây)?

Nếu bổ sung vốn thông qua thoái vốn nhà nước, kết quả tích cực tỷ lệ chiếm dụng nhà đầu tư phi nhà nước thì có mấy hậu quả có thể là bất lợi như sau:

(i) Nhà nước sẽ thất thu về cổ tức. Tuy nhiên, sự thất thu này chỉ đúng khi các thước đo lợi nhuận (chẳng hạn ROA và ROE) của NHTM có vốn nhà nước là cao hơn của NHTM tư nhân. Nhưng hiện tại thì điều này không hoàn toàn đúng; vẫn có nhiều NHTM tư nhân hoạt động hiệu quả hơn NHTM có vốn nhà nước. Nói theo một cách khác, với lượng vốn nắm giữ ít hơn ở các ngân hàng tư nhân hiệu quả hơn thì nhà nước vẫn rất có thể thu về một lượng cổ tức không đổi, mà không nhất thiết phải đổ vốn vào NHTM có vốn nhà nước.

(ii) Nhà nước sẽ mất quyền chi phối các quyết định hoạt động trong ngân hàng, khiến cho làm vô hiệu hóa công cụ thực thi chính sách quan trọng này đối với Ngân hàng NN. Tuy nhiên, do tỷ lệ thoái vốn, nếu có, sẽ là không lớn, ít nhất trong tiến trình tới đây, nên nhà nước vẫn giữ được mức ảnh hưởng có tính quyết định với những ngân hàng này. Nếu cần, nhà nước rất có thể thêm những điều kiện khi thoái vốn như duy trì quyền phủ quyết. Trên hết, trong cơ chế giờ đây, NH Nhà Nước có nhiều quyền lực, bằng phương pháp này hay cách khác, để buộc bất cứ một ngân hàng nào đó thực hiện chủ trương mà không cần phải duy trì tỷ lệ sở hữu nhà nước quá lớn trong số ngân hàng.

(iii) kết quả khả quan năng lực chuyên môn bị cạnh tranh, thôn tính và lũng đoạn của nhà đầu tư nước ngoài (gồm những ngân hàng nước ngoài) với hệ thống ngân hàng. Điều này có thể phần nào sẽ là hiện thực nếu cổ đông nước ngoài được nắm giữ tỷ lệ chiếm dụng cao, chi phối. Nhưng trong thực tiễn và triển vọng của những NHTM có vốn nhà nước cho thấy vấn đề này là khó xảy ra trong các năm tới, ngoại trừ với các ngân hàng yếu kém, đang được tái cơ cấu (và cổ đông nước ngoài có thể sở hữu 100%). Mà các ngân hàng này, do quy mô có hạn, không phải là công cụ chính sách của Ngân hàng Nhà Nước, và cũng không phải là mối đe dọa tới sự an toàn và ổn định của khối hệ thống.

Và cuối cùng, nếu bổ sung vốn bằng cách cho phép những NHTM có vốn nhà nước được giữ lại lợi nhuận, không chi trả cổ tức (bằng tiền mặt), việc này sẽ làm ảnh hưởng ngay đến thâm hụt chi phí. Tuy vậy, quy mô và ảnh hưởng của việc này sẽ là nhỏ hơn so với việc nhà nước phải trích ngân sách ra để trực tiếp bổ sung vốn cho ngân hàng. Và suy cho cùng, với cùng lập luận rằng bổ sung vốn ngân sách cho ngân hàng là để cho nó khỏe hơn, hiệu quả hơn nên sẽ dễ thoái vốn sau này với giá cao hơn, việc cho phép ngân hàng giữ lại lợi nhuận nhằm bổ sung vốn cũng là nhằm đạt được cùng một mục đích như vậy nhưng với phí tổn nhỏ hơn.

Tóm lại, việc được cho phép NHTM có vốn nhà nước được giữ lại lợi nhuận và (kết hợp với) thoái bớt vốn nhà nước đang nắm dữ cho NĐT trong và ngoài nước sẽ là giải pháp hữu hiệu hơn là việc dùng chi phí nhà nước để kết quả ấn tượng vốn cho những ngân hàng này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét