Việc xây dựng quy định và quản trị thế nào khi ngày càng có nhiều công ty Fintech phát triển chiến thuật trong lĩnh vực thanh toán, tín dụng thanh toán, định danh khách hàng, hay áp dụng công nghệ chuỗi khối với thực chất phi tập trung, một cách tự phát, thậm chí vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật hiện hành là vấn đề cần đặt ra.
Vô vàn thách thức
Dù dự báo mang về nhiều cơ hội lớn, nhưng CMCN 4.0 cũng đang đặt ra vô số thử thách lớn cho ngành Ngân hàng trong giai đoạn giờ đây và tương lai. Trong đó, một trong những thử thách lớn hiện giờ là việc nghiên cứu đánh giá, xây dựng quy định và quản lý các sản phẩm, ứng dụng công nghệ số sao cho “kín kẽ, đầy đủ”.
Theo các chuyên gia, sự thiếu tính đồng bộ, thống nhất trong số quy định, thủ tục liên quan đến nhiều bộ, ban, ngành gây trở ngại lớn trong việc xây dựng quy định pháp lý mới đáp ứng cải cách công nghệ ngành Ngân hàng.
điển hình nổi bật như việc áp dụng công nghệ nhận dạng chữ viết (OCR) trong định danh khách hàng. Tại những nước phát triển, giải pháp này có thể được triển khai dễ dàng do ứng dụng nhận dạng OCR chỉ cần đọc các ký tự, hình ảnh trên CMND khách hàng, với một mẫu đồng bộ. Trong khi đó tại Việt Nam, ứng dụng này cần nhận biết ba loại giấy tờ xác định danh tính khác nhau (bao gồm CMND cũ 9 số, CMND mới 12 số và Căn cước công dân 12 số) với bố cục, mẫu thiết kế đặc trưng, và thay đổi tùy theo giai đoạn.
Như vậy, trước khi đề ra quy định cho phép ứng dụng chiến thuật định danh khách hàng từ xa, cơ quan quản trị Nhà nước phải cân nhắc đến khả năng áp dụng với tình trạng hồ sơ khách hàng còn “muôn hình vạn trạng” hiện nay.
không chỉ có vậy, CMCN 4.0 đặt ra yêu cầu mới cho NH Nhà Nước trong việc xây dựng các khuôn khổ chính sách để quản trị, giám sát những yếu tố mới như tiền điện tử (E-money), công nghệ tài chính (Fintech)... Với tốc độ phát triển chóng mặt của những công nghệ mới, mang tính đột phá và rất có thể thay đổi cấu trúc nhiều ngành nghề, lĩnh vực, cơ quan quản lý Nhà nước khó hoàn toàn có thể đưa ra quyết định tức thời về hành lang pháp lý phù hợp, do phải xét đến nhiều yếu tố rủi ro đặc thù với những ứng dụng mới. Điển hình nổi bật là rủi ro tăng thêm nợ xấu, tội phạm rửa tiền...
hay việc xây dựng quy định và quản trị thế nào khi ngày càng có nhiều công ty Fintech phát triển chiến thuật trong lĩnh vực thanh toán, tín dụng, định danh khách hàng, hay áp dụng công nghệ chuỗi khối với bản chất phi tập trung, một cách tự phát, thậm chí vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật hiện hành cũng là vấn đề cần đặt ra. Như đã có những ý kiến đưa ra, trong khi các định chế tài chính và những dịch vụ tài chính truyền thống đang chịu nhiều ràng buộc pháp lý để đảm bảo an toàn hệ thống thì các quy định pháp lý đối với Fintech ở Việt Nam còn chưa đầy đủ và chính vì như vậy có thể tạo ra một sân chơi không công bằng.
Hơn nữa, tính chất toàn cầu và không biên giới của Fintech đòi hỏi cần nâng cao sự hợp tác quốc tế và trao đổi thông tin về những cách tân dịch vụ tài chính trên thị trường thế giới giữa những quốc gia. Dù các nước đều muốn hướng đến áp dụng phù hợp với những quy định luật pháp/ chuẩn mực quốc tế chung nhưng việc nghiên cứu, cân nhắc và chọn lựa mới chỉ đang diễn ra và còn nhiều quan điểm vượt trội.
Một vấn đề cấp thiết khác trong việc quản trị các hoạt động Fintech tại Việt Nam cũng như trên thế giới là bảo mật thông tin khách hàng. Trong khi các DN công nghệ, ngân hàng mong muốn tìm hiểu và san sẻ thông tin khách hàng ngày càng lớn thì quyền truy cập và quản lý các thông tin này như thế nào, cần được đồng ý bởi khách hàng ra sao để tránh bị lợi dụng, bị rủi ro vươn tay sang tin tặc hoặc vi phạm về quyền riêng tư và bảo mật thông tin cá nhân cũng là những vấn đề cần xử lý.
Đối mặt và vượt lên
Không chỉ dừng lại ở những thử thách nêu trên, cơ quan quan lý còn phải đối mặt với hàng loạt các thách thức khác như điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh tiền điện tử ngày càng được sử dụng và chấp thuận rộng rãi trên thế giới (đặc biệt là việc NHTW sẽ gặp khó khăn hơn trong kiểm soát lượng cung tiền của nền kinh tế trong trường hợp tổ chức phát hành tiền điện tử là những định chế tài chính phi NH tại nước ngoài). Hoặc không chỉ có vậy là thách thức trong việc kiểm soát dòng tiền, rủi ro trong thanh toán và an toàn hoạt động toàn hệ thống trong xu hướng những hoạt động tài chính phi ngân hàng/ngân hàng ngầm ngày càng phát triển. Thử thách trong việc chuyển đổi hoạt động thanh tra giám sát từ chủ yếu dựa trên thanh tra tại chỗ sang thanh tra giám sát trên cơ sở rủi ro dựa vào việc giám sát từ xa trên nền tảng công nghệ mới như điện toán đám mây hay phân tích dữ liệu lớn…
Trước các thách thức như vậy, ngành Ngân hàng những ngày qua đã có nhiều nỗ lực và đạt được nhiều dấu mốc quan trọng trong công cuộc cải cách công nghệ nhằm thích ứng với cuộc CMCN 4.0. Như về mặt định hướng chiến lược, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 2545/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020; Xây dựng chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện… Về nguồn lực, NH Nhà Nước đã thành lập Hội đồng Thanh toán và Công nghệ; thành lập Ban chỉ huy về lĩnh vực Fintech… nhằm cập nhật những xu hướng công nghệ mới cũng như tìm kiếm các phương án xây dựng, hoàn thiện hệ sinh thái và khuôn khổ pháp lý cho những công ty Fintech.
Tuy nhiên theo những chuyên gia, để ngành Ngân hàng rất có thể đón đầu các làn sóng công nghệ, phát triển môi trường Fintech một cách bền vững và bắt kịp tốc độ phát triển quốc tế, cần có sự phối hợp nghiêm ngặt giữa Ngân hàng NN, các NHTM và những công ty công nghệ. Dựa trên các đánh giá về thách thức đối với cơ quan quản trị Nhà nước, cũng như tham khảo kinh nghiệm quốc tế, ngành Ngân hàng có thể triển khai theo ba giai đoạn để kiến tạo môi trường phát triển phù hợp với các công nghệ mới trong cuộc CMCN 4.0, bao gồm: thành lập và đi vào hoạt động tổ tham vấn, tổ chức thí điểm hoặc thiết lập môi trường thử nghiệm (sandbox) cho những ứng dụng công nghệ mới và xây dựng hành lang pháp lý. Xuyên suốt ba giai đoạn này, cơ quan quản trị Nhà nước sẽ nắm vai trò chủ chốt, là đơn vị giám sát, điều phối nguồn lực và các đơn vị chức năng tham gia, và xử lý tranh chấp, khúc mắc tồn đọng.
Trong đó, các chuyên gia đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tổ chức thí điểm hoặc thiết lập môi trường thử nghiệm (giai đoạn hai). Bởi mô hình sandbox sẽ vừa giúp các công nghệ mới mang tính đột phá có thể được đưa vào thử nghiệm một cách hiệu quả, nhanh chóng trong môi trường độc lập, cùng với đó cũng giúp “khoanh vùng” để quản lý, giúp tránh được các ảnh hưởng phức tạp và rủi ro tiềm ẩn phá vỡ quy định hiện hành. Trong trường hợp kết quả thử nghiệm cho thấy cần có sự điều chỉnh, bổ sung hành lang pháp lý, cơ quan quản lý Nhà nước cũng sẽ có đầy đủ cơ sở thông tin hơn trong thuyết phục và phối hợp cùng các bộ, ban, ngành liên quan thiết kế ra các quy định phù hợp.
Để tiếp diễn đối phó với thách thức, tận dụng cơ hội và vượt lên trong CMCN 4.0, ở kề bên việc tập trung nghiên cứu để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, đặc biệt là tạo hành lang pháp lý cho những hoạt động, dịch vụ và sản phẩm mới thì đồng thời, cơ quan quản trị cũng cần xây dựng cơ chế quản lý giám sát phù hợp với bối cảnh Việt Nam và các chuẩn mực chung, thông lệ tốt của thế giới. Không dừng lại ở đó, việc chú trọng góp vốn đầu tư cơ sở hạ tầng Công nghệ TT chung của quốc gia nhằm ứng dụng thành tựu của CMCN 4.0 cũng là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét