Thứ Năm, 6 tháng 9, 2018

Ngân hàng quốc doanh - lại vấn đề tăng vốn

Ông Nghiêm Xuân Thành khuyến cáo được cho phép các NHTM Nhà nước giữ lại cổ tức hàng năm để tăng vốn. Không chỉ có vậy, tiếp diễn được chấp nhận các ngân hàng bán vốn, thoái vốn cũng như phát hành cổ phiếu riêng lẻ để thực hiện tăng vốn.

Tình thế cấp bách của những ngân hàng quốc doanh

Câu chuyện tăng vốn cho ngân hàng quốc doanh lại một lần nữa nóng lên khi ông Nghiêm Xuân Thành - Chủ tịch Hội đồng quản trị Vietcombank lên tiếng cảnh báo về sự cấp bách của vấn đề đó tại một hội nghị quan trọng của ngành Ngân hàng vừa diễn ra.

Vì sao việc tăng vốn lại trở nên cấp bách hơn bao giờ hết? Trao đổi với phóng viên, chỉ đạo cấp cao của 3 NHTM có vốn nhà nước đều có chung “đáp án”: Hiện tỷ lệ an toàn vốn theo tính toán hiện nay của những ngân hàng này đã chạm ngưỡng tỷ lệ an toàn vốn. Nếu áp dụng tỷ lệ này theo tiêu chuẩn Basel II có thể vi phạm an toàn.
Kết quả hình ảnh cho tang von ngan hang

Không tăng được vốn sẽ ảnh hưởng tới khả năng cấp tín dụng thanh toán của những ngân hàng
Điều đáng ngạc nhiên nữa là hiện 4 NHTM có vốn nhà nước lớn gồm có Agribank, Vietcombank, BIDV và VietinBank chiếm tới hơn 50% tổng dư nợ tín dụng của toàn Ngành. Bởi vậy, nếu các NH này không tăng được vốn, việc cấp tín dụng thanh toán cho cả nền kinh tế thị trường sẽ bị ảnh hưởng.

Ngược lại, nếu vẫn vượt rào cấp tín dụng thanh toán, các NH này sẽ đặt cả hệ thống vào rủi ro. Chính vì lẽ đó, mặc dù cả Vietcombank, VietinBank và BIDV rất có thể nằm trong trường hợp đặc biệt được nới trần tăng trưởng tín dụng thanh toán theo quy định tại Chỉ thị 04 do tham gia tái cơ cấu ngân hàng yếu kém, nhưng chỉ huy những ngân hàng trên tỏ ra cẩn trọng khi cho biết, trong quá trình sắp tới, khi chưa được tăng vốn thì những ngân hàng sẽ ưu tiên kiểm soát chất lượng tín dụng thanh toán thay vì tốc độ kết quả khởi sắc.

Trước trong thực tế hơn ba năm trở lại đây, cả 3 ngân hàng trên gần như không gia tăng đồng vốn nào, trong khi lại đang phải đối mặt với nhiều áp lực về đáp ứng vốn cho nền kinh tế thị trường, nhất là phải nâng hệ số CAR theo tiêu chuẩn Basel II. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s cũng đưa ra cảnh báo, nếu không nhanh chóng tăng vốn, khả năng kết quả ấn tượng của các ngân hàng lớn tại Việt Nam sẽ chững lại và sẽ ảnh hưởng đến hoạt động chung của hệ thống.

Theo tính toán của một thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn theo quy định, khối hệ thống ngân hàng Việt Nam cần tăng vốn gấp 1,8 - 2 lần so với hiện tại. Như vậy, ước tính, cả khối hệ thống ngân hàng Việt Nam cần tới 7 tỷ $ để tăng vốn trong năm 2018 và 2019. Với quy mô hoạt động như lúc bấy giờ, một nửa áp lực đặt lên vai khối NHTM quốc doanh. Đó là thử thách không hề nhỏ đối với những ngân hàng này khi các quy định vẫn đang bó chân họ trong việc tăng vốn.

Khi “soi” kế hoạch tăng vốn của 3 ngân hàng này thì mỗi ngân hàng một cảnh. Khó khăn nhất có thể là trường hợp VietinBank khi ngân hàng đã cạn room để hút vốn ngoại. Sau khi khuyến nghị nới room cho cổ đông ngoại không được đồng ý, lãnh đạo ngân hàng này cho biết, đã phải chuẩn bị vài chiến thuật bổ sung vốn cấp bách để trình NHNN, Chính phủ và đang chờ phê duyệt.

Trong khi đó, mặc dù hiện room ngoại của BIDV còn nguyên, tuy nhiên, BIDV đang đợi Chính phủ phê duyệt người đóng cổ phần ngoại mà ngân hàng này đã chọn lựa. Tuy chưa chính thức chào làng nhưng giới góp vốn đầu tư đồn đoán đối tác ngoại mà BIDV chọn là Hana KEB (Hàn Quốc) khi vào cuối năm ngoái hai ngân hàng này đã ký thỏa thuận hợp tác chiến lược.

Riêng Vietcombank xem ra là có nhiều lợi thế hơn so với VietinBank và BIDV khi được chấp thuận phát hành cổ phiếu riêng lẻ cho người đóng cổ phần ngoại để tăng vốn, nhưng vẫn gặp rào cản từ hoạt động này.

Vướng mắc mà ngân hàng này gặp phải được ông Nghiêm Xuân Thành cho hoặc, thời gian qua, Vietcombank đã được phép phát hành cổ phiếu riêng lẻ cho cổ đông nước ngoài. Nhưng qua tiếp xúc với những người đóng cổ phần, có điểm khó đối với hoạt động này đó là giá vừa phải đảm bảo không thấp hơn giá định giá, vừa không thấp hơn giá thị trường. Chưa kể mua lô lớn, các người đóng cổ phần phải giữ trong vòng một năm mới được bán cho NĐT khác. Đây thực sự là quy định khó khăn cho ngân hàng.

Việc khống chế thời gian chuyển nhượng cũng là một trong hai nguyên nhân khiến xác suất để Vietcombank có thể phát hành được toàn bộ 10% vốn này trong năm 2018 là quá thấp. Lân cận việc người mua cổ phiếu sẽ bị hạn chế chuyển nhượng trong một năm, hiện tại ở mức giá trung bình khoảng 60.000 đồng/CP, cổ phiếu của Vietcombank đang giao dịch với mức P/B 2018 khoảng 3.6, không thực sự lôi cuốn so với P/B của những ngân hàng có chất lượng tài sản tốt khác.

Tìm cách gỡ bí

Trước mắt để các ngân hàng có đủ vốn đáp ứng nhu cầu được những quy chuẩn của Basel II cũng như cung ứng đủ vốn cho nền kinh tế thị trường theo chỉ tiêu kết quả ấn tượng tín dụng trong quá trình tới, ông Nghiêm Xuân Thành đề xuất được chấp nhận những NHTM Nhà nước giữ lại cổ tức hàng năm để tăng vốn. Ngoài ra, tiếp tục được chấp nhận những ngân hàng bán vốn, thoái vốn cũng như phát hành cổ phiếu riêng lẻ để thực hiện tăng vốn.

“Vietcombank mong thời gian tới Chính phủ chỉ đạo các bộ, ban ngành liên quan rà soát lại cơ chế đảm bảo tuân thủ pháp luật, đặc biệt quyền lợi NĐT, quyền lợi nhà nước cũng như đảm bảo thuận lợi cho việc tăng vốn của ngân hàng”, ông Thành bày tỏ.

Đồng tình với những giải pháp trên, nhưng TS. Cấn Văn Lực cho rằng, đó chỉ là giải pháp tạm thời trong lúc cấp bách. Về lâu dài, kênh tăng vốn hiệu quả nhất của các NHTM quốc doanh chính là gọi vốn ngoại. Tuy nhiên lúc bấy giờ, tốc độ phê duyệt các giải pháp về đối tác doanh nghiệp ngoại còn khá chậm. Do vậy, cần phải đẩy nhanh tốc độ quá trình này.

“Tất cả người đóng cổ phần nước ngoài nói chung, NĐT chiến lược nói riêng góp vốn đầu tư có thời điểm, chứ họ không thể chờ đợi mãi. Nên khâu xem xét phê duyệt các thương vụ bán cổ phần cho người đóng cổ phần chiến lược nước ngoài cần rất khẩn trương để những ngân hàng cũng như người đóng cổ phần chớp được cơ hội. Qua đây cũng thể hiện đúng tinh thần Chính phủ về cải tổ môi trường góp vốn đầu tư kinh doanh”, TS. Lực lưu ý tầm quan trọng của việc đẩy nhanh tốc độ phê duyệt các thương vụ bán cổ phần và cho biết thêm việc kéo dài thời gian phê duyệt ảnh hưởng đến giá bán thắng lợi cổ phiếu.

Đơn cử, hai bên đàm phán thời điểm tháng 3 giá là 30.000 đồng/CP, nhưng thời điểm được phê duyệt rơi vào tháng 9 cùng năm đó giá chắc chắn sẽ thay đổi. Nên nếu lấy tham chiếu cách 1-2 tháng cũng là lỗi thời chưa nói đến thời điểm đàm phán. Do vậy cần phải thúc đẩy tiến độ phê duyệt giải pháp nhanh hơn, cùng với đó, nghiên cứu phương pháp, cơ sở định giá cổ phiếu từ phía nhà nước không chỉ dựa trên thị giá mà phải trên cơ sở quan hệ cung cầu và cập nhật diễn biến thị trường để đảm bảo giá cổ phiếu đó sát với giá thị trường, năng lực chuyên môn giao dịch thành công cao hơn.

Một hướng đi mở cho các NHTM quốc doanh đó là theo Chiến lược tăng trưởng ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 vừa được Thủ tướng phê duyệt, từ nay đến năm 2020, Nhà nước sẽ nắm vai trò chi phối, giữ tối thiểu 65% tổng cộng cổ phần có quyền biểu quyết đối với 3 ngân hàng có vốn nhà nước. Tới năm 2025, tỷ lệ này chỉ còn cần đảm bảo ở mức 51%.

Song song với đó, một số chuyên gia cũng kiến nghị xem xét nới room ngoại để những ngân hàng này có thêm dư địa tăng vốn. Còn TS. Cấn Văn Lực đề xuất song song với triển khai tốt lộ trình giảm tỷ lệ sở hữu của Nhà nước, Chính phủ nên nghiên cứu phương án phát hành cổ phiếu vàng. Với việc phát hành cổ phiếu này, Chính phủ không cần nắm tỷ lệ chi phối nhưng vẫn có quyền quyết định vấn đề quan trọng đối với những ngân hàng này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét